Vươn xa

Hàng không dân dụng Việt Nam: Những chặng bay nối dài cùng lịch sử đất nước

Nam Bình 01/09/2025 07:30

Từ những chiếc máy bay đầu tiên trên bầu trời đầu thế kỷ XX đến mạng lưới đường bay kết nối năm châu, hành trình của hàng không Việt Nam gắn liền với từng nhịp đập lịch sử.

hkvn.jpg

Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, hàng không Việt Nam từng bước phát triển, hệ thống cảng hàng không rộng khắp, đáp ứng nhu cầu di chuyển bằng đường hàng không ngày càng cao của người dân.

Từ những nhiệm vụ đầu tiên…

Lịch sử ngành hàng không Việt Nam ghi lại, ngày 10/12/1910, những chiếc máy bay đầu tiên của Pháp xuất hiện trên bầu trời Sài Gòn. Đây cũng là lần đầu tiên những chiếc tàu bay xuất hiện tại Việt Nam.

Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đến năm 1951, lần đầu tiên xuất hiện việc người Việt Nam tham gia kinh doanh trên lĩnh vực hàng không dân dụng.

Đó là sự ra đời của Công ty Hàng không Việt Nam (Air Vietnam) do một số nhà tư sản Việt Nam liên kết với hãng Hàng không Pháp (Air France) lập ra.

airvietnam.jpg
Hành khách của Air VietNam tại một phi trường thời điểm năm 1972. Ảnh tư liệu.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Cả miền Bắc sống trong bầu không khí hăng hái thi đua vượt mức kế hoạch nhằm đáp ứng yêu cầu khôi phục kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng miền Bắc vững mạnh.

Trong bối cảnh đó, việc ra đời một tổ chức chính thức về ngành hàng không dân dụng để nghiên cứu đề xuất phương án xây dựng, tổ chức quản lý và hoạt động vận tải hàng không dân dụng trở thành một yêu cầu cấp bách.

Đến ngày 15/1/1956, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 666/TTg thành lập Cục Hàng không Việt Nam. Từ đây, ngày 15/1 hàng năm được lấy làm ngày truyền thống của ngành Hàng không dân dụng Việt Nam.

qd.jpg
Quyết định số 666-TTg ngày 15/01/1956 của Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng về thành lập Cục Hàng không dân dùng năm 1956. Ảnh tư liệu.

Tính đến cuối năm 1958, tuy số lượng máy bay của Cục Hàng không Việt Nam - Ban nghiên cứu sân bay mới chỉ có 10 chiếc, nhưng đã thực hiện hơn 3.700 chuyến bay vận tải hành khách và hàng hóa trên các đường bay trong nước, góp phần khôi phục nền kinh tế miền Bắc.

Ngoài lĩnh vực chở khách và hàng hóa, hàng không dân dụng Việt Nam cũng thực hiện nhiều nhiệm vụ khác như bay chuyên cơ, bay gieo hạt, bay phun thuốc trừ sâu…

Có thể kể đến như vụ việc bay phun thuốc trừ sâu cho những cánh rừng thông ở hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An vào cuối năm 1960. Thời điểm đó, Trung đoàn 919 đã sử dụng máy bay AN-2 rồi chế tạo, lắp ráp dàn phun trên máy bay để phun thuốc trừ sâu cho rừng thông. Chỉ trong mấy ngày, máy bay phun thuốc diệt trừ được nạn sâu phá hoại, trả lại màu xanh và những dòng nhựa quý cho trên 720 ha rừng thông.

Hay như việc bay làm mưa nhân tạo vào mùa hè năm 1960 ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp, những chiếc Li-2 bụng chứa đầy hóa chất, bay lên trời làm mưa nhân tạo bằng cách phun vào các đụn mây để có thể gây phản ứng hóa học, tạo ra mưa. Hoạt động này góp phần đẩy lùi hạn hán ở một số vùng, cứu sống hàng ngàn ha lúa trước nguy cơ mất trắng do thiếu nước tưới…

… đến lần đầu bán vé bay ra công chúng

Sau ngày 30/4/1975 cho tới khi thành lập Tổng cục Hàng không Việt Nam, lực lượng máy bay vận tải của Lữ đoàn Không quân vận tải 919 chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ vận chuyển hành khách, hàng hóa trên đường hàng không Bắc-Nam.

Tuy nhiên, các hoạt động này chủ yếu mang tính chất phục vụ nhiệm vụ chính trị, chưa tổ chức kinh doanh.

Cuối năm 1975, Tổng cục Hàng không dân dụng đã đề nghị Nhà nước cho ngành hàng không được bán vé hành khách và thu cước vận chuyển hàng hóa để góp phần giảm bớt gánh nặng bao cấp của Nhà nước, vì chi phí cho hoạt động bay mỗi ngày một gia tăng.

Tài liệu của Cục hàng không Việt Nam ghi lại, ngày 20/3/1976, Tổng cục Hàng không dân dụng đã gửi tờ trình lên Hội đồng Chính phủ về việc xin mở các đường bay trong nước tuyến Hà Nội – TP.HCM, Hà Nội - Đà Nẵng, TP.HCM - Đà Lạt, Hà Nội - Nà Sản - Điện Biện Phủ và đề nghị sớm cho bán vé hành khách cũng như thu cước hàng hóa.

il-14.jpg
Máy bay IL-14 trưng bày tại Bảo tàng Hàng không. Ảnh: VATM.

Đến ngày 20/8/1976, Nhà nước đã chính thức cho phép ngành hàng không dân dụng được bán vé hành khách và thu cước hàng hóa. Nhưng việc bán vé mới chỉ phục vụ hạn chế đối tượng theo quy định với nhiều thủ tục kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ và phức tạo.

Tuy vậy, sau gần 4 năm được bán vé máy bay cho hành khách và thu cước vận chuyển hàng hóa, tiền thu được của ngành hàng không gồm có đồng Việt Nam thu từ khách là công dân Việt Nam; đồng rúp Liên Xô và USD thu từ khách quốc tế, từ Tổng đại lý và từ bay quá cảnh… Số tiền này được nộp 100% cho ngân sách quốc gia theo cơ chế bao cấp.

Không có đòn bẩy kích thích bằng kinh tế cũng như ràng buộc trách nhiệm về vật chất, thay vào đó, tất cả đều được tiến hành theo chế độ đãi ngộ bình quân làm cho năng suất lao động không phát triển.

Công tác vận chuyển, phục vụ hành khách, công tác tài chính… do đó không có chuyển biến, tiến bộ nhiều. Nạn cửa quyền, xem thường khách khá phổ biến ở khâu xét duyệt, bán vé…

Cải tổ dịch vụ, tăng tốc phát triển

Bước vào thập kỷ 80, ngành hàng không dân dụng cùng với các ngành kinh tế khai thác tiếp tục phát triển trên chặng đường mới của công cuộc xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức, phương thức sản xuất kinh doanh.

Đây là những năm tháng đầy khó khăn, thử thách khi đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội sâu sắc, kéo dài. Hơn nữa, chính sách cấm vận của Mỹ đã gây ra những trở ngại lớn ảnh hưởng đến sự phát triển nền kinh tế Việt nam nói chung và đặc biệt là ngành hàng không dân dụng nói riêng.

Nhằm phát huy tiềm năng và thế mạnh của kinh tế hàng không dân dụng là vận tải hàng không quốc tế, năm 1981, Tổng cục Hàng không dân dụng đã thực hiện cơ chế quản lý kế hoạch hóa theo hướng kinh doanh xã hội chủ nghĩa và hạch toán kinh tế, áp dụng các đòn bảy kinh tế như trả lương theo lao động, thưởng,…

Nhờ đó đã khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại, đồng thời phát huy hết khả năng để đóng góp cho nền kinh tế quốc dân, trên cơ sở đó, tạo điều kiện xây dựng và phát triển ngành hàng không dân dụng.

Sân bay Tân Sơn Nhất cũng bước đầu xây dựng chỉ tiêu định mức cho từng loại công việc, từng người lao động. Phòng vé của sân bay đổi mới cách phục vụ. Sân bay Nội Bài cải tiến cung cấp suất ăn nóng trên máy bay cho các tuyến bay quốc tế…

HKVN 2
Bên cạnh việc bán vé cho hành khác, hàng không Việt Nam thực hiện thu cước hàng hóa từ năm 1976. Ảnh tư liệu.

Kết quả, đã có gần 218.000 lượt khách bay được phục vụ, trong đó có hơn 22.100 lượt khách quốc tế, vận tải hàng hóa cũng đạt gần 3.000 tấn, trong đó, chủ yếu là hàng hóa quốc tế với khoảng 2.850 tấn.

Trong thời gian từ năm 1982 đến năm 1985, ngoài lượng xăng dầu được cung ứng theo chế độ bao cấp, ngành hàng không mua thêm nhiên liệu để duy trì tần suất bay trên các tuyến chính, đồng thời tăng chuyến bay trên một số tuyến địa phương có nguồn khách đông như Tân Sơn Nhất – Đà Nẵng – Tân Sơn Nhất, Tân Sơn Nhất – Pleiku – Tân Sơn Nhất, Tân Sơn Nhất – Buôn Ma Thuột…

Ngoài ra, ngành hàng không cũng mở thêm đường bay Hà Nội – Huế - Tân Sơn Nhất – Hà Nội, Tân Sơn Nhất – Nha Trang, Tân Sơn Nhất – Pleiku; bay lại tuyến Hà Nội – Điện Biên – Hà Nội.

Ngành hàng không dân dụng Việt Nam cũng thực hiện nâng cao chất lượng phục vụ hành khách, tiến hành chấn chỉnh công tác đảm bảo thương vụ, hàng hóa, hành lý, bán vé; tăng cường công tác giáo dục và các biện pháp chống tiêu cực như để mất hành lý của khách, móc hành lý, hàng hóa, các tệ nạn “phe vé máy bay”, cửa quyển, gây phiền hà cho khách…

Nổi bật
Mới nhất
Hàng không dân dụng Việt Nam: Những chặng bay nối dài cùng lịch sử đất nước
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO