'Tử chiến trên không' năm 1978 đã thay đổi hàng không Việt Nam thế nào?
Các vụ không tặc từ Entebbe 1976 cho đến vụ 11/9 ở Mỹ và ký ức bi tráng trên bầu trời Việt Nam năm 1978 buộc ngành hàng không toàn cầu phải thay đổi căn bản tư duy và chính sách an ninh.

Mỗi vụ không tặc trong lịch sử đều để lại những dấu ấn đặc biệt, không chỉ với các nạn nhân trực tiếp mà còn tác động lâu dài tới chính sách an ninh hàng không toàn cầu.
Từ Entebbe năm 1976, tới vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001 ở Mỹ, và cả ký ức 52 phút sinh tử trên bầu trời Việt Nam năm 1978, tất cả đã buộc thế giới phải thay đổi cách nhìn nhận về an ninh hàng không.
Vụ giải cứu con tin Entebbe (Uganda) năm 1976 đã trở thành hình mẫu cho các chiến dịch chống khủng bố trên máy bay. Nhiều quốc gia từ đó tăng cường hợp tác tình báo, huấn luyện lực lượng đặc nhiệm và siết chặt kiểm soát tại sân bay.

Sau vụ 11/9, ngành hàng không thế giới bước sang kỷ nguyên mới như hệ thống kiểm tra an ninh đa tầng, cửa buồng lái bọc thép, hành khách bị giám sát chặt chẽ và sự ra đời của Cơ quan An ninh Vận tải Hoa Kỳ (TSA). Máy bay không chỉ còn là phương tiện vận tải, mà đã trở thành một tuyến phòng thủ an ninh quốc gia.
Đối với Việt Nam, vụ không tặc năm 1978 trên chuyến bay DC-4/501 là một bài học đặc biệt. Trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn sau chiến tranh, ngành hàng không buộc phải nhanh chóng củng cố lực lượng cảnh vệ và quy trình an ninh. Phi công, tiếp viên được huấn luyện kỹ năng thương thuyết, ứng phó tình huống khẩn cấp, phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang.

Ngày nay, Việt Nam áp dụng tiêu chuẩn an ninh hàng không của ICAO, với nhiều lớp kiểm soát từ soi chiếu, giám sát hành khách cho đến lực lượng cơ động trực chiến tại sân bay. Dù không đối diện thường xuyên với khủng bố, nhưng những ký ức lịch sử cho thấy an ninh hàng không luôn là “lằn ranh sinh tử” gắn liền với an ninh quốc gia.

Trong lịch sử hàng không thế giới, những vụ không tặc không chỉ gây ra thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản, mà còn để lại dấu ấn sâu đậm, buộc ngành hàng không toàn cầu phải thay đổi tư duy và chính sách an ninh. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó, đặc biệt sau sự kiện năm 1978.
Để làm rõ hơn những thay đổi từ thực tiễn đến chính sách, Tạp chí Hàng không đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Linh - Nguyên Trưởng phòng An ninh hàng không của Cục Hàng không Việt Nam.

Thưa ông, sau vụ việc không tặc năm 1978, ngành hàng không Việt Nam đã điều chỉnh chính sách an ninh và áp dụng những biện pháp phòng ngừa nào nhằm tránh lặp lại kịch bản tương tự?
Trước ngày 28/6/1978 tàu bay của hàng không Việt Nam đã bị không tặc. Vào ngày 29/10/1977, tàu bay DC3 số hiệu 509 của Hàng không Việt Nam xuất phát từ Tân Sơn Nhất đi Rạch Giá đã bị không tặc, 04 đối tượng đã khống chế tổ lái và yêu cầu bay sang Singapore.

Ngay sau vụ việc nay nhiều biện pháp an ninh nhằm phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn không tặc đã được áp dụng như: Sàng lọc hành khách ngay từ khâu bán vé; tăng cường kiểm tra hành khách, hành lý trước khi cho phép lên tàu bay; không cho phép tàu bay cất cánh khi tàu bay đang còn dưới mặt đất; bố trí nhân viên cảnh vệ trên không đi trên các chuyến bay có trang bị vũ khí để bảo đảm an ninh và ứng phó với tình huống bị không tặc v.v…
Tuy vậy, để ngăn chặn đối phó với không tặc là vô cùng khó khăn, phức tạp. Bởi vì, âm mưu, thủ đoạn của chúng luôn thay đổi hết sức tinh vi và khó lường, chúng hoạt động hết sức “chuyên nghiệp” tiến hành điều tra, nghiên cứu, lập kế hoạch tỉ mỉ trước khi thực hiện để có thể “xuyên thủng” các biện pháp kiểm soát an ninh, trong khi vào những năm sau giải phóng (1975), tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, nhiều đối tượng âm mưu cướp tàu bay để chạy ra nước ngoài, trong khi lực lượng an ninh hàng không của Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm, trang thiết bị sử dụng để kiểm tra hành khách, hành lý còn thiếu thốn và lạc hậu.
Hơn nữa, vụ không tặc ngày 11/9/2001 tại Mỹ là minh chứng điển hình cho thấy đối phó với không tặc không bao giờ là dễ dàng, cho dù thiết bị hiện đại, kiểm soát chặt chẽ, lắm tiền nhiều của như nước Mỹ, vẫn “không thể ngăn chặn” không tặc.
Vì vậy, nêu cao cảnh giác, nắm được âm mưu, ý đồ của khủng bố, tội phạm và thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp kiểm tra, kiểm soát và đặc biệt phải xây dựng được “văn hóa an ninh hàng không” mạnh mẽ xem an ninh là trách nhiệm của mọi người sẽ là vacxin tốt để phòng ngừa không tặc, bảo đảm an ninh hàng không hiệu quả.
Hiện lực lượng an ninh hàng không cùng phi hành đoàn đã được trang bị kỹ năng ứng phó như thế nào liên quan đến vấn đề không tặc?
- Ứng phó với không tặc đòi hỏi phải trang bị kiến thức và kỹ năng phù hợp cho các đối tượng liên quan, trong đó có nhân viên an ninh trên không và người lái, tiếp viên, họ được đào tạo, huấn luyện các kỹ thuật xử lý tình huống trong môi trường chật hẹp và căng thẳng trên chuyến bay; kiến thức tâm sinh lý tội phạm; kỹ năng phối hợp xử lý tình huống; vấn đề liên lạc trao đổi của tiếp viên trong khoang hành khách với tổ bay trong buồng lái; kiến thức kỹ năng kiểm soát, ngăn chặn xâm nhập buồng lái; sử dụng các loại vũ khí, công cụ hỗ trợ thích hợp trên tàu bay; kỹ năng tự vệ, tấn công khống chế đối tượng v.v…

Ngoài việc đào tạo huấn luyện cơ bản, họ phải được huấn luyện định kỳ hàng năm, kết thúc các khóa học phải trải qua các bài kiểm tra để đánh giá và cấp chứng chỉ, chứng nhận, đồng thời họ được tham gia vào hoạt động diễn tập đối phó với tình huống không tặc để làm quen và rút kinh nghiệm sau mỗi cuộc diễn tập.
Tham gia vào việc đối phó với không tặc đòi hỏi rất nhiều lực lượng chứ không chỉ lực lượng an ninh trên không và phi hành đoàn. Tất cả các lực lượng liên quan đều được huấn luyện và diễn tập thường xuyên định kỳ để có thể xử lý được các tình huống khủng hoảng cũng như không tặc nếu nó xảy ra.
Trong bối cảnh hiện nay, khi những nguy cơ an ninh phi truyền thống vẫn tiềm ẩn, ông đánh giá năng lực phòng ngừa và ứng phó của hàng không Việt Nam đang ở mức nào so với các chuẩn mực quốc tế?
Bảo đảm an ninh hàng không trong đó bao gồm công tác phòng ngừa và công tác đối phó với các hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động Hàng không dân dụng như không tặc, đánh bom, tấn công vũ trang v.v… thì tất cả các quốc gia đều phải tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn của Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) quy định và ICAO thường xuyên đánh giá các quốc gia để bảo đảm duy trì tiêu chuẩn trên phạm vi toàn cầu. Qua các cuộc đanh giá của ICAO với Việt Nam các chỉ số tuân thủ của Việt Nam cơ bản đều đạt.
Tất nhiên, từng quốc gia riêng đều có những vấn đề riêng về các mối đe dọa, nguy cơ khủng bố, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội và các rủi ro an ninh tiềm ẩn khác nhau.
Vì vậy, trên cơ sở Báo cáo đánh giá rủi ro an ninh hàng không toàn cầu của ICAO, chúng ta cần thực hiện công tác quản lý, đánh giá rủi ro một cách bài bản, thường xuyên, liên tục kể cả ở cấp quốc gia và cấp cơ sở để phân loại rủi ro cho từng kịch bản đe dọa cụ thể với từng mục tiêu cụ thể để điều chỉnh kịp thời các biện pháp bảo đảm an ninh phù hợp với mức độ đe dọa với từng kịch bản cụ thể.
Ngành hàng không thế giới đã thay đổi thế nào sau sự kiện 11/9?
Lịch sử an ninh hàng không trên thế giới đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm khác nhau. Làn sóng không tặc xảy ra trên thế giới lên đỉnh điểm vào giai đoạn cuối những năm 60 đầu những năm 70 của thế kỷ trước đã buộc ngành hàng không, các quốc gia phải hành động và Công ước Hague 1970 về ngăn chặn loại trừ hành vi chiếm giữ tàu bay bất hợp pháp đã ra đời, ICAO đã ban hành Phụ lục 17 về an ninh năm 1974 để xác lập các tiêu chuẩn chung cho hoạt động Hàng không dân dụng quốc tế, từ đó ngăn chặn được tình trạng không tặc, số vụ không tặc đã giảm hẳn.
An ninh hàng không giữ được ổn định trong thời gian dài đã dẫn tới việc mất cảnh giác và hệ quả là vụ khủng bố 11/9 làm rung chuyển thế giới đã xảy ra, đó là sự trả giá cho việc mất cảnh giác của ngành hàng không và sự coi nhẹ an ninh hàng không của các quốc gia. Khủng bố nói riêng, các loại tội phạm hàng không nói chung luôn coi tàu bay là mục tiêu “béo bở” được ưu tiên.
Âm mưu, thủ đoạn hoạt động của chúng thường xuyên thay đổi khó lường để thích ứng và vượt qua các biện pháp an ninh được áp dụng, thủ đoạn rất tinh vi và ngày càng nguy hiểm, dã man hơn: từ không tặc đến đánh bom tàu bay, bắn hạ tàu bay bằng tên lửa vác vai; từ việc khống chế hành khách trên tàu bay làm con tin để đưa ra các yêu sách đến việc sử dụng tàu bay như một vũ khí tấn công hủy diệt các mục tiêu dưới mặt đất; từ chỗ thiết bị nổ đơn giản được cất giấu trong hành lý đến việc chỉnh sửa một chiếc laptop, một đôi giày, quần lót … thành một thiết bị nổ, hay chế tạo, sử dụng chất nổ lỏng đến việc chúng có thể cấy ghép thiết bị nổ trong cơ thể để tấn công cảm tử.
Hay như vụ 11/9 các đối tượng khủng bố không mang theo bất kỳ một thứ vũ khí hay công cụ nào bị cấm mang lên tàu bay để làm công cụ sử dụng cho hành động không tặc mà chúng chỉ sử dụng “trí” và “lực” của “bộ não” và “cơ bắp” để cướp 4 tàu bay rồi tấn công nước Mỹ bằng kịch bản không tưởng.

Sau sự kiện 11/9 siết chặt an ninh hàng không là điều tất yếu để bảo vệ an toàn tính mạng của hành khách, thành viên phi hành đoàn. Các biện pháp càng siết chặt, càng tăng cường cũng đồng thời sẽ gây ra tình trạng xếp hàng dài chờ đợi trước các điểm kiểm tra soi chiếu, tạo ra nhiều sự phiền phức, gây chậm trễ chuyến bay, việc lưu thông nhanh chóng, liền mạch dòng hành khách, hành lý, hàng hóa bị ắch tắc, gián đoạn, đứt gãy làm cho khai thác hàng không kém hiệu quả.
Đây là bài toán khó và là thách thức mà ngành hàng không thế giới và mỗi quốc gia phải đối mặt. Bài toán này đang được giải quyết với 3 mục tiêu chinh là: hiệu quả an ninh; hành khách hài lòng và hiệu quả kinh tế.
Chìa khóa để đạt được 3 mục tiêu này là áp dụng cách tiếp cận an ninh mới, từ phương pháp thụ động “all in one” sang phương pháp chủ động dựa trên rủi ro có sự phân biệt theo thời gian thực băng cách đổi mới công nghệ; đổi mới quy trình và đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Theo hướng này nhiều sáng kiến an ninh đã và đang được triển khai như “Smart Security” của ACI hay “One ID” của IATA, Chương trình Precheck@ của TSA v.v… Đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế giữa các quốc gia để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và áp dụng “An ninh một điểm dừng”, đẩy mạnh xây dựng và củng cố văn hóa an ninh hàng không tích cực trên phạm vi toàn cầu.
Xin chân thành cảm ơn ông!
Ký ức bi tráng năm 1978 đã trở thành chất liệu để điện ảnh Việt tái hiện trên màn bạc. Bộ phim “Tử chiến trên không”, khởi chiếu từ ngày 19/9, tái dựng chân thực hành trình 52 phút đối đầu không tặc của cơ trưởng Phạm Trung Nam cùng phi hành đoàn.
Đây không chỉ là tác phẩm điện ảnh mang tính giải trí kịch tính, mà còn là lời tri ân những con người đã hy sinh để bảo vệ tính mạng hành khách và khẳng định bản lĩnh của hàng không Việt Nam trong giai đoạn đầy thử thách.
“Tử chiến trên không” được giới phê bình nhận định có thể sánh ngang với nhiều phim Hollywood cùng thể loại nhờ kịch tính cao độ, song vẫn giữ bản sắc Việt Nam khi đặt yếu tố nhân văn và tinh thần trách nhiệm của con người lên hàng đầu.
Tác phẩm trở thành cầu nối giữa ký ức lịch sử và nhận thức hiện tại, cho thấy an ninh hàng không không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà còn là một phần bản sắc và lòng tự tôn dân tộc.